Việt Nam có khoảng 50 – 100 loài nấm độc khác nhau. Mùa xuân, thời tiết ẩm, thuận lợi cho các loài nấm phát triển. Đây cũng là thời điểm thường xảy ra các vụ ngộ độc nấm. So với các loại ngộ độc khác, ngộ độc nấm xảy ra ít hơn về số ca, nhưng tỷ lệ tử vong lại rất cao.
Dưới đây là đặc điểm 4 loại nấm độc thường gặp ở Việt Nam mà bạn cần ghi nhớ kỹ.
Nấm độc chứa Amatoxin
Loại nấm có độc tố chính là các amanitin (amatoxin) độc tính cao, tác động lên nguyên sinh chất tế bào, gây phá hủy tế bào, đặc biệt là tế bào gan, gây suy gan cấp.
Triệu chứng nhiễm độc thường xuất hiện muộn (từ 6 đến 24 giờ) như đau bụng, nôn, tiêu lỏng, vàng da, xuất huyết, tiểu ít, hôn mê… Việc điều trị cần thực hiện càng sớm càng tốt để giảm nguy cơ tử vong.
Nấm độc tán trắng
Nấm độc tán trắng có tên khoa học là Amanita verna. Đây là loại nấm mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác… Nấm độc tán trắng được phân bố ở khắp nơi trên thế giới và thấy nhiều ở Châu Âu, Châu Mỹ và Canada. Tại Việt Nam, nấm tán trắng thường mọc ở các tỉnh phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Cạn, Phú Thọ…
Mũ nấm màu trắng và bề mặt mũ nhẵn bóng. Lúc non đầu tròn hình trứng, mũ nấm đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành, mũ nấm phẳng và đường kính khoảng 5-10 cm. Khi già mép mũ có thể cụp xuống. Phiến nấm và cuống nấm màu trắng, phần cuống có dạng màng ở trên gần sát với mũ, chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm mềm, màu trắng và mùi thơm dịu.
Nấm độc trắng hình nón
Đặc điểm của nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa) trông gần giống nấm độc tán trắng, chúng mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc trên mặt đất trong rừng và một số nơi khác. Mũ nấm có màu trắng, bề mặt nhẵn bóng, mũ nấm lúc non đầu tròn hình trứng, mép khum đính chặt vào cuống. Khi trưởng thành mũ nấm thường khum hình nón.
Phiến nấm cũng có màu trắng. Cuống nấm màu trắng, vòng dạng màng ở đoạn trên gần sát với mũ. Chân cuống phình dạng củ và có bao gốc hình đài hoa. Thịt nấm mềm, màu trắng, mùi khó chịu.
Nấm độc có chứa muscarin
Chất độc muscarin có trong nấm gây ra các triệu chứng thần kinh như ra mồ hôi quá độ, hôn mê, chứng co giật, ảo giác, kích động, suy nhược, liệt cơ kết tràng…
Triệu chứng sẽ giảm bớt sau 2 giờ, hiếm khi tử vong, chỉ xảy ra khi bị ngộ độc quá nặng gây rối loạn, hư hỏng tim mạch và hô hấp.
Nấm mũ khía nâu xám (Inocybe fastigiata hoặc Inocybe rimosa) chứa muscarin, thường mọc trên mặt đất trong rừng, hoặc nơi có nhiều lá cây mục nát.
Mũ nấm hình nón đến hình chuông, đỉnh nhọn, có các sợi tơ màu từ vàng đến nâu tỏa ra từ đỉnh xuống mép mũ. Khi già, mép mũ nấm bị xẻ thành các tia riêng rẽ. Đường kính mũ nấm 2 – 8 cm. Phiến nấm lúc non màu hơi trắng, gắn chặt vào cuống, khi già có màu xám hoặc nâu, tách rời khỏi cuống. Cuống nấm có màu từ hơi trắng đến vàng nâu, dài 3 – 9 cm, chân không phình dạng củ, không có vòng cuống. Thịt nấm màu trắng.
Nấm độc chứa độc tố gây rối loạn tiêu hóa
Loại nấm độc này gây rối loạn hệ tiêu hóa. Chất độc tác động nhanh chóng gây buồn nôn, ói mửa, đau bụng, chuột rút và tiêu chảy. Triệu chứng xuất hiện sớm sau ăn từ 20 phút đến 4 giờ và giảm dần tới 2-3 ngày.
Nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites) mọc thành từng cụm hoặc đơn chiếc ở ven chuồng trâu bò, trên bãi cỏ, ruộng ngô và 1 số nơi khác. Mũ nấm của loại nấm này lúc còn non hình bán cầu dài, màu vàng nhạt, có các vảy nhỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt.
Khi trưởng thành mũ nấm hình ô hoặc trải phẳng, màu trắng, đường kính 5 – 15 cm, trên bề mặt mũ có các vảy mỏng màu nâu bẩn dày dần về đỉnh mũ. Phiến nấm lúc non có màu trắng, lúc già có ánh màu xanh nhạt hoặc xanh xám, nấm càng già màu xanh càng rõ. Cuống nấm màu từ trắng đến nâu hoặc xám, có vòng ở đoạn trên gần sát với mũ, chân cuống không phình dạng củ và không có bao gốc, cuống dài 10 – 30 cm. Thịt nấm có màu trắng.
Nấm thức thần hay nấm Psilocybe
Độc tố chính của nấm là psilocybin và psilocin gây rối loạn tâm thần (ảo giác, rối loạn cảm xúc, dễ kích động).
Triệu chứng xuất hiện sớm (một giờ sau ăn) và khỏi sau 12-24 giờ.
Nấm thức thần hay nấm psilocybe thường mọc nơi những chỗ có phân bò, cỏ mục hay gỗ mục. Mũ nấm đường kính 1- 2 cm, màu nâu vàng (khi khô đổi màu rơm), hình nón, phủ một lớp nhày trong. Phiến nấm lúc non có màu trắng, lúc già có ánh màu xanh nhạt hoặc xanh xám, nấm càng già màu xanh càng rõ. Cuống nấm rất dài, mỏng manh, màu như mũ nấm, có khi chuyển màu xanh lục hoặc lam. Thịt nấm màu nâu nhạt, mùi nhẹ, vị nhạt.