Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Cây Tô Mộc trang 50 – 52, tải bản PDF tại đây.
Còn có tên là cây gỗ vang, cây vang nhuộm, cây tô phượng (do cây này mọc ở nước Tô Phượng, một nước cổ ở vùng hải đảo Trung Quốc).
Tên khoa học Caesalpinia sappan L.
Thuộc họ Vang Caesalpiniaceae.
Tô mộc (Lignum Caesalpiniae sappan) là gỗ phơi khô của cây gỗ vang hay cây tô mộc. Vì vị thuốc sản xuất ở Tô Phượng cho nên có tên (Tô là Tô Phượng, mộc là gỗ).
Mô tả cây
Cây tổ mộc là một cây cao 7-10m, thân có gai. Lá kép lông chim, gồm 12 đôi, hay hơn 12 đôi lá chét, hơi hẹp ở phía dưới tròn ở đầu, mặt trên nhẫn, mặt dưới có lông. Hoa 5 cánh màu vàng mọc thành chùm, nhị hơi lòi ra, nửa dưới chỉ nhị hơi có lông, bầu hoa phủ lông xám. Quả là một giáp dẹt hình trứng ngược dày, dai, cứng, dài từ 7-10cm, rộng từ 3,5-4cm, trong có 3-4 hạt màu nâu
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta vì gỗ được dùng làm thuốc nhuộm gỗ và làm thuốc với tên tô mộc. Người ta dùng gỗ chẻ mỏng phơi khô.
Thành phần hoá học
Trong cây tô mộc có tanin, axit galic, chất sappanin C12H12O4, chất brasilin C16H14O5 và tinh dầu.
Brasilin là một chất có tinh thể màu vàng. Với kiềm cho màu đỏ, khi oxy hoá sẽ cho braseilin C16H12O5.
Cấu tạo của chất brasilin và brasilein gắn giống chat hematoxylin và hematein (do hematoxylin oxy hoá) là chất màu lấy ở gỗ cây Hematoxylon campechianum L. cùng họ.
Tác dụng dược lý.
1. Phòng đông y thực nghiệm Viện vi trùng Việt Nam (1961) đã nghiên cứu thấy nước sắc tô mộc có tác dụng kháng sinh mạnh đối với vi trùng Staphylococcus 209P (vòng vô khuẩn (1,2cm), Salmonella typhi (0,4cm), Shiga flexneri (0,7cm). Shigella sonnei (0,2), Shigella dysenteria Shiga (1cm), Bacillus subtilis (1cm).
Tác dụng kháng sinh này không bị nhiệt, dịch vị và dịch tụy tạng phá hủy.
2. Theo M.Gabor (1951) brasilein có tác dụng kháng histamin. Nếu tiêm brasilein vào màng bụng chuột bạch trước thì có thể để phòng hiện tượng thay đổi ở mắt chuột bạch do tiêm dung dịch 1,5% histamin clohydrat.
3. Theo M. Gabor, B. Horvath, L. Kiss và Z. Dirner (1952), brasilin và brasilein đều có tác dụng làm mạnh và kéo dài tác dụng của hocmon thượng thận đối với mẫu ruột cô lập của chuột bạch hoặc tử cung cô lập của thỏ và đối với huyết áp của thỏ.
4. Năm 1952 M. Gabor, I. Szodady và Z. Dirner còn báo cáo thí nghiệm trên sinh thiết (coupe microscopique) tổ chức thận và nước của tổ chức thận thấy brasilin và brasilein có tác dụng ức chế men histidin decacboxylaza.
5. Tù Tá Hạ và Diêm Ứng Bổng (1954-1955, 1956, Trung Hoa y học tạp chí) nghiên cứu toàn diện áp dụng được lý của tổ mộc đã đi đến kết luận sau:
Báo cáo thứ nhất
– Với lượng vừa thích hợp, tô mộc có tác dụng làm tăng sự co bóp của tim ếch cô lập. Áp lực tìm lúc đầu càng yếu, tác dụng càng rõ.
– Nước tổ mộc làm cho sự co mạch của huyết quản ếch tăng lên (phương pháp Treudenberg). Nếu bắt đầu dùng nước tỏ mộc trước rồi mới dùng muối nitrit, thì tác dụng dãn mạch của muối nitrit sẽ không xuất hiện nữa.
– Nước tô mộc không có ảnh hưởng đối với hô hấp và huyết áp của chó bị gây mê. Nếu phối hợp với histamin hoặc hocmon thượng thận cũng không thấy tác dụng hiệp đồng.
– Đối với mẫu ruột thỏ cô lập, nước tổ mộc không có tác dụng, nhưng có thể tăng mạnh tác dụng của hocmon thượng thận đối với mẫu ruột
– Nước tô mộc hơi có tác dụng ức chế đối với tử cung cô lập của chuột nhất. Nếu phối hợp tổ mộc với hocmon thượng thận, tác dụng ức chế càng rõ.
– Nước tổ mộc và hematoxylin không giống nhau. Tựa hồ như không có tác dụng kháng histamin.
Báo cáo thứ hai
– Bồi dầu thông trên bụng thỏ. Nước tô mộc không có tác dụng giảm nhẹ tính chất kích thích của dầu thông.
– Thí nghiệm trên phế quản của chuột bạch, nước tổ mộc không có tác dụng làm giảm mất tác dụng của histamin đã gây co bóp trên phế quản.
– Tiêm nước tô mộc vào tĩnh mạch của con chó đã gây mê, dung tích của thận không bị ảnh hưởng.
– Sau khi tiêm 0,1m1 vaccin thương hàn vào tĩnh mạch con thỏ để gây sốt, sau đó tiêm vào màng bụng 5ml dung dịch 20% tô mộc, nhiệt độ không giảm.
– Tiêm vào bụng chuột nhất 1ml dung dịch 100% tô mộc, không làm mất tác dụng cong đuôi do tiêm mocphin vào chuột 1mg/10g chuột. Đối với thỏ hầu như có tác dụng đối kháng với tác dụng trấn tĩnh do tiêm dung dịch morphin vào dưới da (5mg/kg thể trọng).
– 0,2ml dung dịch 20% tổ mộc có thể khôi phục sự hoạt động của tim ếch cô lập (phương pháp Straub) đã bị đình lại do tiêm nước sắc 20% vị thuốc chỉ xác.
Báo cáo thứ ba
– Dùng nước tô mộc cho thỏ, chuột bạch, chuột nhất uống hoặc tiêm tĩnh mạch hay dưới da hoặc thụt đều gây ngủ, lượng lớn có thể gây mê và có thể chết.
– Nước tỏ mộc có tác dụng đối kháng đối với tác dụng hưng phản trung khu thần kinh do stricnin hoặc côcain gây ra.
– Nước tỏ mộc có khả năng khôi phục sự hoạt động của tim ếch cô lập (phương pháp Straub) đã bị cloralhydrat hoặc quinin clohydrat, pilocacpin, eserin salicylat làm cho chưa hoàn toàn đình chỉ.
– Tiêm nước sắc tô mộc dưới da hoặc vào bụng con chó có thể gây nôn mửa và đi tả.
Công dụng và liều dùng
Tính vị theo đông y: Vị ngọt, bình, không độc, vào 3 kinh tâm, can và tì. Có tác dụng hành huyết, thông lạc, khử ứ, chỉ thống, tán phong hòa huyết, chữa đẻ xong ứ trệ, kinh nguyệt bế, ung thũng, bị đánh tổn thương. Không ứ trệ cấm dùng.
Nhân dân dùng tô mộc làm thuốc săn da và cầm máu dùng trong các trường hợp tử cung chảy máu, đẻ mà mất máu quá nhiều, choáng váng, hoa mắt.
Còn dùng chữa lỵ ra máu, chảy máu trong ruột, xích bạch đới.
Một số vùng nhân dẫn dùng tỏ mộc nấu với nước uống thay chè.
Phụ nữ có thai không dùng được.
Ngày uống 6 – 12g, dưới dạng thuốc sắc. Nước sắc gỗ vang còn dùng để nhuộm đồ gỗ trước khi đánh vécni.
Đơn thuốc có tô mộc
1. Bài thuốc chữa kinh nguyệt không đều hoặc đẻ xong đau bụng từng cơn.
Tô mộc 10g, huyền hồ sách 6g, sơn tra 10g. hồng hoa 3g, ngũ linh chi 8g, đương quy thân 10g, nước 600m1, sắc còn 200m1, Chia 3 lần uống trong ngày.
2. Đẻ xong ra huyết nhiều: Tổ mộc 12g, sắc với 200ml nước còn 100ml. Chia 2 lần uống trong ngày.