Lá neem (Azadirachta indica leaf): Loại xoan Ấn Độ có nhiều công dụng chữa bệnh

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Lá neem.

Tên khác: Sầu đâu, xoan sầu đâu, xoan trắng, xoan ăn gỏi, cây nim, xuyên luyện, đốc hiên, khổ luyện (Trung Quốc), sđâu (Campuchia), Neem tree, margosa tree, indian lilac (Anh), latier blanc (Pháp).

Tên khoa học: Azadirachta indica A. Juss., Melia azadirachta L.. Thuộc họ Xoan (Meliaceae).

Cây neem trong tự nhiên

Đặc điểm tự nhiên

Lá neem là cây thân gỗ cao 40 – 50 feet trở lên, thân thẳng, cành dài xòe tạo thành tán tròn rộng. Cây neem có vỏ thô màu nâu sẫm, các vết nứt dọc được ngăn cách bởi các đường gờ phẳng. Lá neem là lá kép, hình lông chim lẻ, không có lông, mọc so le, mỗi lá có 5 – 15 lá chét, hình mác, dài khoảng 6 đến 8cm, rộng từ 2 đến 3cm, phiến lệch, nhẵn, đầu nhọn, mép khía răng (lá non có mép nguyên).

Cây neem có cụm hoa mọc chủ yếu ở nách lá, ngắn hơn lá, gồm nhiều hoa xếp thành những xim nhỏ, cuống có lông, lá bắc ngắn, rụng sớm. Cánh hoa hình trứng màu trắng có mùi thơm ngọt ngào. Quả hạch, màu vàng, hình elip và nhẵn, dài khoảng 12 – 20mm. Quả có màu xanh, khi chín chuyển sang màu vàng, có mùi thơm như mùi tỏi.

Hoa nở vào tháng 3 đến tháng 4.

Quả chín từ tháng 4 đến tháng 8 tùy theo địa phương.

Lá neem và quả neem

Phân bố, thu hái, chế biến

Phân bố

Cây neem có nguồn gốc từ phía đông Ấn Độ và Miến Điện, nó phát triển ở phần lớn Đông Nam Á và Tây Phi, và gần đây là vùng Caribe, Nam và Trung Mỹ. Ở Ấn Độ mọc tự nhiên ở đồi Siwalik, rừng khô Andhra Pradesh, Tamil Nadu và Karnataka ở độ cao khoảng 700m. Cây neem được trồng và thường xuyên nhập tịch ở khắp các vùng khô hơn ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan và Indonesia. Nó cũng được trồng và thường được nhập tịch ở Bán đảo Malaysia, Singapore, Philippines, Úc, Ả Rập Saudi, Châu Phi nhiệt đới, Caribe, Trung và Nam Mỹ.

Năm 1981, một số hạt giống của cây neem được đưa về trồng thử nghiệm ở khuôn viên Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Ninh Thuận. Sau nhiều năm, cây đã cho hạt giống để nhân trồng tiếp và đến năm 1998, hàng loạt cây con chính thức được đem trồng trên một vùng cát khô cằn thuộc xã Phước Sinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Cây neem là cây đặc biệt ưa sáng, sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, mặc dù lượng mưa ở vùng Ninh Phước được coi là thấp nhất Việt Nam. Cây trồng thích nghi cao với thời tiết nắng nóng có gió cát thường xuyên của vùng bán hoang mạc.

Thu hái và chế biến

Khi lấy vỏ thân làm thuốc nên chọn những cây đã đến tuổi khai thác gỗ (6 đến 7 năm tuổi), chặt cả cây cạo bỏ vỏ đen ở ngoài rồi bóc lấy lớp vỏ lụa trắng của thân và cành to. Rễ cũng bóc lấy vỏ.

Vỏ thu được đem phơi hay sấy khô, khi dùng sao cho hơi vàng, hết mùi hăng là được.

Bộ phận sử dụng

Tất cả các bộ phận của cây neem đều được sử dụng làm thuốc trong nhiều thế kỷ. Nó đã được sử dụng trong y học Ayurvedic trong hơn 4000 năm do đặc tính chữa bệnh của nó. Các tác phẩm y học bằng tiếng Phạn sớm nhất đề cập đến lợi ích của trái cây, hạt, dầu, lá, rễ và vỏ cây neem. Mỗi loại đã được sử dụng trong y học Ayurvedic và Unani của Ấn Độ và hiện đang được sử dụng trong ngành dược phẩm và mỹ phẩm.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *